Trị liệu hệ thống gia đình là gì? Mỗi cá nhân được sinh ra đều có một lịch sự phát triển liên quan đến bản thân và gia đình của mình. Ngày nay đa số nhà tâm lý học không còn xem cá nhân một cách riêng biệt mà cho rằng những triệu chứng rối nhiễu tâm lý là biểu hiện rối loạn có thể một trong những nguyên nhân xuất phát từ chính gia đình. Cho nên các nhà tâm lý thường vận dụng nhiều phương pháp tư vấn, can thiệp và trị liệu do việc đào tạo xuất phát từ nhiều quan điểm, nhiều nguồn khác nhau. Một trong những phương pháp đó là trị liệu hệ thống (thérapie systemique).
Việc thiết lập chân dung tâm lý của cá nhân và gia đình giúp ta có cái nhìn tổng hợp về cuộc sống của một người, những đặc trưng tâm lý cũng như hoàn cảnh cụ thể mà người đó đang sống. Từ đó, giúp ta có cách thức tiếp cận và giúp đỡ một cách phù hợp hơn.
Gia đình như một hệ thống
Khái niệm về gia đình
Khái niệm về gia đình có rất nhiều định nghĩa khác nhau, tuy nhiên, trong bài viết này thì khái niệm về gia đình được định nghĩa như sau: Theo truyền thống, gia đình được định nghĩa như là một nhóm người, có cùng quan hệ dòng máu hoặc cùng huyết thống và cùng cư trú. Định nghĩa này được mở rộng bao gồm những người có cùng cảm nhận về một gia đình tương lai, hoà hợp bởi hôn nhân, dòng máu, cư trú và người làm con nuôi.
Nói chung, sự kết hợp các thành viên trong một gia đình có thể do hai yếu tố chính:
(1) Những người cùng huyết thống (cha mẹ–con cái, ông bà–cháu, anh chị em ruột …).
(2) Yếu tố luật định (kết hôn, nuôi con…). Một số gia đình được tạo lập không tuân theo cách thức truyền thống hoặc không được luật pháp hoặc đạo đức xã hội thừa nhận (ví dụ sống chung không hôn thú, hôn nhân giữa những người đồng tính…).
Xem thêm >>> Tham Vấn Tâm Lý Tận Nhà Tại TPHCM
Khái niệm về hệ thống
Học thuyết hệ thống được bắt nguồn và vận dụng trong nhiều lĩnh vực, cơ khí hay tin học, sinh học hay kinh tế xã hội. Một hệ thống được định nghĩa là một tổng thể phức hợp gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau.
Và mỗi biến động trong một yếu tố nào đó đều tác động lên những yếu tố khác và cũng có thể tác động lên toàn bộ hệ thống. Một hệ thống gồm nhiều tiểu hệ thống, đồng thời lại là một bộ phận của một hệ thống khác lớn hơn. Có những hệ thống khép kín, không trao đổi với xung quanh và cũng có những hệ thống mở. Hệ thống khép kín chỉ gặp trong ngành vật lý, còn các hệ thống sinh học hay xã hội đa phần là hệ thống mở.
Một hệ thống không chỉ là một tập hợp gồm nhiều bộ phận khác nhau, mà là một tổng thể có những đặc tính không hoàn toàn do những đặc trưng của các bộ phận khác cộng lại.
Mối liên quan ở đây không phải đơn tuyến một chiều, mà các yếu tố tác động lẫn nhau theo những mối liên quan chằng chịt đặc biệt là mối liên hệ tác động qua lại theo mạch phản hồi (feedback–rétroaction). Sơ đồ nhân quả đơn tuyến (linear causality) theo đường thẳng A [ B [ C được thay thế bằng sơ đồ nhân quả xoay vòng (circular causality).
Những tác động qua lại giữa các bộ phận tạo ra một thế nhất định. Mỗi sự kiện gây ra một tác động đồng thời cũng gây ra những phản ứng ngược lại tạo ra xu thế lập lại trạng thái cân bằng nội tại (homeostasis). Tuy nhiên mọi hệ thống lành mạnh vẫn giữ được bản sắc trong lúc tạo ra những thay đổi cơ cấu để thích nghi với những biến động của môi trường.
Có những hệ thống linh hoạt có khả năng điều chỉnh những mối quan hệ bên trong và bên ngoài một cách dễ dàng để tồn tại lâu dài. Có những hệ thống cứng nhắc khi gặp biến động mạnh trong môi trường thì không giữ được cân bằng dễ bị tan rã.
Hệ thống nào cũng có một bờ rào, một đường biên giới phân cách với môi trường chung quanh, có qui định đầu vào và đầu ra, cụ thể hoá mối liên quan giữa hệ thống và môi trường, đồng thời được bố cục theo những cơ cấu và hoạt động theo cơ chế nhất định.
Những hệ thống khép kín sẽ mất dần năng lượng dẫn tới tiêu vong (entropie), còn những hệ thống mở có khả năng tiếp nhận năng lượng từ bên ngoài tồn tại lâu dài. Nhờ có sự liên quan với nhau mà những hệ thống tồn tại được nhưng cũng vì vậy gây ra rối loạn cho nó.
Theo phương pháp Decartes cần phân chia những sự vật phức tạp thành những yếu tố đơn giản. Còn trong quan điểm hệ thống lại cần nhìn thấy hết tính phức tạp của sự vật.
Khái niệm gia đình như một hệ thống
Gia đình như một hệ thống mở, gồm nhiều thành viên với những mối liên hệ qua lại chằng chịt. Những tác động qua lại này nhằm duy trì sự cân bằng của hệ thống gia đình. Trong nội bộ gia đình, những mối tình cảm, lòng ham, xung năng, và quan hệ uy quyền tạo ra những luồng thông tin truyền dẫn giữa những thành viên. Mỗi gia đình tạo ra một mối liên quan riêng tuỳ thuộc vào văn hóa xã hội, lịch sử và những tính chất riêng của gia đình đó.
Những mối liên quan này có thể linh hoạt hoặc cứng nhắc giữa các thành viên với nhau, giữa các tiểu hệ thống bên trong gia đình, và giữa gia đình với các hệ thống lớn hơn bên ngoài (làng xóm, phố phường…) mà ranh giới giữa gia đình và bên ngoài có thể bịt kín hay mở rộng.
Gia đình là một giao diện (interface) giữa cá nhân và xã hội, là một thể chế thiết yếu làm trung gian giữa mục tiêu sinh lý và văn hoá xã hội trong sự hình thành nhân cách. Ranh giới giữa các thành viên với nhau cũng như giữa gia đình và môi trường chung quanh là một vấn đề rất quan trọng. Bản thân cơ cấu gia đình không phức tạp lắm, nhưng mỗi thành viên là một tiểu hệ phức tạp, và phức tạp hơn nữa là một hệ thống lớn xã hội xung quanh.
Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong gia đình đi theo một vòng cung phản hồi của mối quan hệ nhân quả mà trong đó những sự kiện đơn lẻ được quan niệm vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả, và có sự tác động hỗ tương giữa các sự kiện với nhau.
Gia đình bao gồm nhiều tiểu hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, mỗi tiểu hệ thống thực hiện những chức năng đặc biệt để duy trì bản thân tiểu hệ thống và bảo vệ duy trì cả hệ thống như một tổng thể.
Mỗi cá nhân cũng là một tiểu hệ thống bên trong gia đình. Cá nhân có liên hệ về mặt chức năng và thứ bậc với các tiểu hệ thống và các cá nhân thành viên khác trong gia đình. Tiểu hệ thống có thể được thành lập dựa trên các thứ bậc (như vợ chồng, anh chị em…), hoặc theo chức năng (cha mẹ, ông bà, con cái…), hoặc theo phái tính (mẹ và các con gái…).
Các quan điểm về lý thuyết hệ thống
Vì gia đình cũng là một hệ thống có sự tương tác, phụ thuộc và tác động qua lại giữa các thành viên. Nếu một cá nhân bị đau ốm thì không chỉ tác động đến tâm lý, tình cảm của cá nhân đó, mà còn tác động đến các thành viên khác trong gia đình.
Khi một cá nhân trong gia đình bị bệnh có thể giúp gia đình thay đổi và sự thay đổi này sẽ tác động đến tất cả những thành viên theo hướng tích cực hay tiêu cực. Do đó, các nhà tâm lý phải tìm hiểu xem gia đình đó thuộc vào loại hệ thống nào – đóng (closed) hay mở (open), xa cách (disengaged) hay không gắn bó (enmeshed); tìm hiểu sự phản hồi (feedback) trong gia đình; những ranh giới (boundaries) chức năng phân chia theo vai trò; và các qui tắc (rules) trong gia đình.
Hệ thống đóng (closed) có nghĩa là gia đình đó không giao tiếp tốt với nhau hoặc giao tiếp hạn chế với người trong gia đình và ngoài xã hội, lẩn tránh giải quyết vấn đề, tạo ra bức tường ngăn cách giữa gia đình với cộng đồng xã hội, không tin tưởng hay không nhờ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cha mẹ thường chăm sóc, bảo bọc, nuông chiều con quá mức và luôn tự hào rằng con mình là con ngoan trò giỏi.
Hệ thống mở (open) giống như cơ thể sinh học và xã hội. Hệ thống này giúp cho các thành viên trong gia đình vừa có tính tự chủ vừa có tính phụ thuộc, cùng có cơ chế duy trì sự ổn định bản sắc trong gia đình, nhưng linh hoạt để thích nghi và có khả năng tự thay đổi với môi trường xung quanh. Đây là sự thăng bằng trong gia đình được duy trì qua sự phản hồi (feedback), ranh giới (boundaries), và quy tắc (rules).
Phản hồi: Phản hồi tích cực làm gia tăng khả năng thay đổi, tăng khả năng tự điều chỉnh, tăng khả năng tổ chức và phát triển. Trái lại, phản hồi không tích cực thì sẽ làm cho cá nhân nản chí, làm giảm nhiệt huyết, làm giảm khả năng thay đổi và giảm khả năng tự điều chỉnh.
Ranh giới: Gia đình là một hệ thống, trong gia đình bao gồm nhiều tiểu hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, mỗi tiểu hệ thống là một cá nhân thực hiện những chức năng riêng để duy trì bản thân và bảo vệ cả hệ thống như một tổng thể thống nhất. Tiểu hệ thống có thể được hình thành dựa trên các thứ bậc, như cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, hoặc theo giới như: cha và con trai, mẹ và con gái…
Các tiểu hệ thống được phân chia bằng những ranh giới. Ranh giới bảo vệ tiểu hệ thống và đồng thời cho phép tác động qua lại giữa các tiểu hệ thống. Có ba loại ranh giới – cứng nhắc (rigid), lỏng lẻo (too open), và lành mạnh (healthy).
* Ranh giới cứng nhắc: thể hiện sự xa cách rõ ràng giữa các thành viên trong gia đình, giao tiếp thường bị tắc nghẽn hoặc khi nói chuyện thường cãi mắng, bảo thủ, không lắng nghe nhau giữa những thành viên trong gia đình, đồng thời cũng không cho người lạ xâm nhập dễ dàng.
* Ranh giới lỏng lẻo là ranh giới không rõ ràng, mất tính cách riêng tư của các cá nhân, khiến các thành viên quá phụ thuộc, quá gắn bó dẫn tới khó phân định đâu là cái riêng và đâu là cái chung, mất đi sự phát triển độc lập và mất bản sắc cá nhân.
* Ranh giới lành mạnh là ranh giới linh hoạt, uyển chuyển, và rõ ràng. Mọi người trong gia đình có thể tin tưởng, cởi mở trao đổi, tôn trọng, gắn bó giữa các thành viên trong gia đình nhưng vẫn tạo sự phát triển độc lập, tham gia, tự quyết, mức độ riêng tư, và trưởng thành của từng người.
Tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển của gia đình (giai đoạn có con nhỏ, giai đoạn có con vị thành niên..), các ranh giới có thể di chuyển ở trạng thái cứng nhắc, hay lỏng lẻo, hay uyển chuyển. Thông thường bệnh lý của một cá nhân có thể bị khởi phát khi gia đình có những ranh giới cứng nhắc.
Trái lại, nếu gia đình có những ranh giới lỏng lẻo thì có thể gia đình bị rơi vào trạng thái hỗn loạn. Những trạng thái quá xa cách, hỗn độn nếu xảy ra thường xuyên và không có chiều hướng thay đổi thì sẽ hình thành nên những vấn đề của gia đình. Lúc đó, gia đình đi gặp nhà tham vấn với sự căng thẳng ngày càng gia tăng.
Qui tắc: là những qui định chung cho phép cá nhân thực hiện những nhiệm vụ trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài vấn đề huyết thống hay luật định, cá nhân trong gia đình còn bị chi phối bới những qui tắc, thứ bậc, cùng với nhưng vai trò của từng thành viên trong gia đình.
Có những qui tắc được công khai (phân chia công việc nhà, vợ làm gì, chồng làm gì…) nhưng ngược lại có những qui tắc ngầm hay bất thành văn. Gia đình lành mạnh sẽ có những qui tắc cơ bản chung, nhất quán, rõ ràng, và có thể uyển chuyển thích nghi với sự thay đổi.
Ngoài ra, mỗi thành viên trong gia đình có một số vai trò, mà vai trò này liên kết các vị thế và chức năng của người ấy trong gia đình. Vai trò có thể theo vị trí, thứ bậc trong gia đình như: bố mẹ, con cái, anh chị em …
Vai trò có thể theo chức năng mà thành viên đảm nhận như nạn nhân (victim), người chịu tội thay (scapegoat), hoặc thánh tử đạo (martyr), v.v… Theo quan điểm hệ thống tất cả những hành vi (ví dụ: vai trò, những triệu chứng và những hình thức giao tiếp) đều có một ý nghĩa.
Xem thêm >>> Tham Vấn Tâm Lý Qua Video Call
Phân biệt khái niệm về chức năng gia đình lành mạnh và gia đình bệnh lý
Chức năng gia đình lành mạnh (normal family functioning)
Sự lành mạnh gia đình có thể được đánh giá dựa trên các yếu tố: không có triệu chứng rối loạn chức năng được vận hành tốt và gia đình thích ứng được với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội.
Hoặc gia đình lành mạnh là bao gồm những cá nhân lành mạnh. Sự lành mạnh có thể thấy được qua các bình diện sức khoẻ thể chất, tinh thần, bối cảnh sống, dinh dưỡng, cảm xúc, trí năng và các mối quan hệ. Các thành tố chức năng ấy ở mỗi thành viên lại tạo nên cảm nhận về bản thân của riêng người ấy. Và tất cả những cảm nhận về bản thân của các thành viên sẻ góp phần tạo nên sự lành mạnh chung cho cả hệ thống gia đình.
Những gia đình tốt nhất thường là gia đình có sự gắn bó, rõ ràng và có cấu trúc linh hoạt (flexible). Đường biên giới các thế hệ và cá nhân là có sự trao đổi qua lại để hiểu nhau, thừa nhận một cảm giác gần gũi và chung sống với nhau lâu dài nhưng vẫn thể hiện được sự tôn trọng tính riêng tư của cá nhân và tiểu hệ thống.
Sự lành mạnh gia đình khuyến khích sự tự chủ cho tất cả những thành viên ở độ tuổi thích hợp. Gia đình lành mạnh thích nghi với cấu trúc bên trong của họ, vai trò mối quan hệ và những qui tắc phản ứng đối với tình huống, phát triển những yêu cầu và những thông tin mới từ môi trường.
Một khả năng thứ bậc rõ ràng tồn tại giữa tiểu hệ thống bố mẹ và con cái. Việc điều khiển uy quyền đến tất cả các thành viên trong gia đình một cách rõ ràng. Trong phạm vi truyền đạt, gia đình lành mạnh truyền đạt rõ ràng và có hiệu quả về cảm nghĩ của họ, thích hợp với điệu bộ tự nhiên và thái độ cảm xúc đang diễn đạt, không có các thông tin “nhập nhằng – nước đôi” (double-bind).
Khái niệm về gia đình bệnh lý (pathological or dysfunctional family)
Gia đình bệnh lý có tính chất không linh hoạt và không có khả năng thích nghi trước sự phản ứng của môi trường, hoặc tình huống yêu cầu sự thay đổi.
Những gia đình này có khuynh hướng không phân hoá, có đường biên giới không tốt, thất bại trong việc hỗ trợ phát triển sự lành mạnh cho mỗi cá nhân và thiết lập sự tin cậy trong mối quan hệ.
Gia đình bệnh lý không linh hoạt, được định nghĩa là cấu trúc có khả năng không tốt, có sự giao tiếp yếu kém (tiêu biểu đó là sự giao tiếp không nhất quán), không có khả năng thương lượng và giải quyết vấn đề, cảm xúc được thể hiện bằng những cách thức tiêu cực, thiếu quan tâm và chăm sóc.
Theo Obson và những cộng sự (1983), khả năng thích nghi của gia đình có liên quan với chức năng hệ thống gia đình linh hoạt và có khả năng thay đổi. Nó còn có khả năng cấu trúc vai trò mối quan hệ và những qui tắc phản ứng trước tình huống và phát triển những yêu cầu. Ngược lại gia đình không lành mạnh thì bám vào các thông lệ cứng nhắc và không có khả năng thay đổi linh hoạt.
Một số quan điểm về liệu pháp gia đình
Quan điểm về giao tiếp trong liệu pháp gia đình
Quan điểm giao tiếp rất quan trọng và được vận dụng nhiều trong trị liệu gia đình. Từ chối giao tiếp cũng là một loại giao tiếp. Nhưng nếu chúng ta từ chối giao tiếp sẽ làm tình hình căng thẳng kéo dài và vấn đề vẫn bị vướng mắc và không được giải quyết. Nếu tình trạng giao tiếp này tái diễn liên tục sẽ dẫn đến đổ vỡ mối quan hệ.
Loại giao tiếp digital và analogic
Giao tiếp theo kiểu digital nghĩa là chỉ đề cập thông tin mang tính sự kiện (fact), kiểu nói bằng lời, điệu bộ chỉ thiên về ý, không có tứ và không theo qui tắc nhất định nên khó đoán và dễ hiểu lầm.
Ví dụ, chúng ta dùng tin nhắn (text) mà người nhận không thể giải mã được mối quan hệ cảm xúc của người gửi với thông điệp và dễ đưa đến diễn dịch sai và gây tổn thương trong giao tiếp.
Ngược lại, giao tiếp theo kiểu analogic nghĩa là người nhận và người gửi thông điệp đều hiểu được cả ý lẫn tứ, hiểu được nội dung, cảm xúc của người gửi và cả nội hàm trong giao tiếp. Ví dụ, chúng ta dùng tin nhắn nhưng kèm theo những biểu tượng cười. Nhạc, thơ, tranh…là loại giao tiếp analogic không lời.
Loại giao tiếp đối xứng (symmetry) và giao tiếp bổ sung (complementary)
Giao tiếp đối xứng (symmetry) là cả vợ và chồng có đều quyền quyết định bình đẳng như nhau, họ có cùng những suy nghĩ, giá trị, nhận định chung về một vấn đề nào đó. Điều này sẽ dễ dàng cho họ trong giao tiếp vì cả hai bên đều cùng nhìn về một phía. Đối với loại giao tiếp bổ sung (complementary) nghĩa là vợ có điểm mạnh của vợ và chồng có điểm mạnh của chồng.
Vì vậy, khi làm việc với các gia đình, nhà tham vấn cần phải áp dụng loại giao tiếp làm sáng tỏ vấn đề của mỗi cá nhân, tránh việc hiểu lầm trong giao tiếp do nói điều vô nghĩa, nói lạc đề, nói không hết ý.
Phân tích và đánh giá gia đình (family assessment) bằng biểu đồ gia tộc và sinh thái
Nhà tham vấn đánh giá gia đình dựa vào ba điểm chính sau:
- Tìm hiểu cấu trúc gia đình,
- Xác định giai đoạn phát triển của gia đình, và
- Tìm hiểu các chức năng của gia đình.
Về cấu trúc gia đình, nhà tham vấn cần phải xem xét vấn đề của một cá nhân trong một khối thống nhất gồm mối quan hệ bên trong, bên ngoài gia đình và bối cảnh tương tác giữa gia đình và xã hội.
Mối quan hệ bên trong cần tìm hiểu xem ai có quyền nhất trong gia đình? Ai có tầm ảnh hưởng nhất trong gia đình? Cách tổ chức gia đình ra sao? Ranh giới giữa các cá nhân trong gia đình thế nào?
Về mối quan hệ bên ngoài gia đình, cần tìm hiểu các mối liên hệ với bà con họ hàng và hệ thống cộng đồng xã hội chặt chẽ hay lỏng lẻo? Nhà tham vần cần tìm hiểu về bối cảnh tương tác giữa gia đình và xã hội, họ thuộc sắc tộc, giai cấp xã hội, và tôn giáo nào?
Về xác định giai đoạn phát triển của gia đình, nhà tham vấn phải xem xét gia đình này đang ở giai đoạn nào: Giai đoạn người trường thành độc thân, giai đoạn lập gia đình nhưng chưa có con, giai đoạn gia đình có con nhỏ, giai đoạn có con vị thành niên, giai đoạn gia đình có con trưởng thành, hay giai đoạn gia đình lúc cuối đời.
Về chức năng của gia đình, nhà tham vấn cần phác họa được các hoạt động hàng ngày của từng thành viên trong gia đình, ví dụ như phân công lao động theo vai trò giới ra sao, và tâm lý tình cảm của các cá nhân trong gia đình, bao gồm thái độ, các biểu hiện ngôn ngữ có lời và không lời, vai trò của từng người, sắp xếp thứ tự vai vế, các giá trị trong gia đình, ai liên minh với ai?…
Dùng biểu đồ gia tộc (Genogram) and biểu đồ sinh thái (Ecomap)
Biểu đồ gia tộc (genogram) là một bản đồ vẽ ra những tiến trình gia đình cùng những tương tác đã xảy ra trong ít nhất ba thế hệ của một tộc họ. Đi kèm theo sơ đồ này có những sự kiện quan trọng trong đời sống, bao gồm những thay đổi, các sự kiện, những biến cố trong cuộc sống của mỗi người, các yếu tố quan trọng và những mối quan hệ phức tạp bên trong gia đình.
Nhà tham vấn còn có thể tìm hiểu lịch sử gia đình và các vấn đề của họ thông qua những biểu đồ gia tộc từ đơn giản đến phức tạp.
Những qui tắc cơ bản khi làm việc với gia đình
Vai trò và nhiệm vụ của tham vấn viên là giúp các thành viên trong gia đình trở nên tích cực thông qua việc tái cấu trúc tổ chức gia đình và giúp họ khơi dậy những điểm mạnh, giá trị cá nhân và gia đình, truyền thông cởi mở để họ tự giải quyết vấn đề gia đình một cách có hiệu quả và có cơ chế, khả năng thay đổi linh hoạt tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển của gia đình.
Khi cấu trúc tổ chức của gia đình giữ được ổn định, trở nên lành mạnh thì triệu chứng về tâm thần, tình cảm, và xã hội của một cá nhân sẽ thuyên giảm và phục hồi. Vì vậy, nhà tham vấn cần lưu tâm những điểm sau khi làm việc với gia đình:
- Làm rõ khái niệm gia đình là khi gia đình có vấn đề sẽ giúp các thành viên gần gũi, gắn kết với nhau hơn.
- Xem gia đình cũng là một tiểu hệ thống trong hệ thống xã hội và phải xem xét mối quan hệ của hệ thống gia đình với các hệ thống khác trong bối cảnh chung.
- Nhớ về mô hình thay đổi mối quan hệ nhân quả xoay vòng khi nghe thân chủ, khi nghe phải nghe nhiều người, nhiều quan điểm khác nhau và những quan điểm này đều thật với người nói, không phê phán khi nghe các quan điểm khác nhau,
- Nêu ra được một vài điểm mạnh của mỗi người, thể hiện sự thân thiện với tất cả, tuyệt đối không bè phái.
- Năng động, biết ngắt đúng lúc nếu như tương tác giữa các thành viên trở nên căng thẳng.
- Giảm căng thẳng bằng cách giao tiếp trực tiếp với từng thành viên, thay vì để họ giao tiếp với nhau, sắp xếp ghế ngồi hợp lý.
- Giúp mọi người cùng hiểu vấn đề, hướng tới những điều mà mọi người đều quan tâm,
- Không khuyến kích đổ lỗi và dán nhãn
- Nhìn, quan sát tương tác (ai nói đỡ cho ai, ai kết tội cho ai, ai đồng minh với ai).
Tâm lý trị liệu gia đình (trị liệu hệ thống) là một phương pháp nhằm tiếp cận, khảo sát, chẩn đoán và trị liệu các bệnh lý của gia đình (hoặc nói chung là của các “hệ thống”). Giúp các thành viên trong gia đình có thể phát triển tốt thông qua việc tái cấu trúc tổ chức gia đình và khơi nguồn cho các cơ chế vận hành hiệu quả trong đời sống gia đình, chứ không đơn thuần chỉ giải quyết “cá nhân có vấn đề”. Một khi cấu trúc gia đình trở nên lành mạnh, cơ chế vận hành đời sống gia đình trở nên hiệu quả, thì triệu chứng hoặc vấn đề ở một cá nhân sẽ không còn điều kiện để tồn tại nữa.