Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) là một rối loạn tâm thần được Hội tâm lý Hoa Kỳ định danh vào đầu nhưng năm 80 của thế kỷ XX sau cuộc chiến tranh Việt Nam tàn khốc. Rối loạn căng thẳng sau chấn thương không chỉ gây ra tác hại đối với sức khỏe, đời sống tinh thần mà còn gây nguy hiểm cho người bị.
Vậy PTSD là gì? Biểu hiện triệu chứng và nguyên nhân dẫn đến rối loạn căng thẳng sau chấn thương này là gì? Điều trị ra sao? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây của Thanhbinhpsy nhé.
Rối loạn căng thẳng sau chấn thương là gì?
Rối loạn căng thẳng sau chấn thương hay còn gọi là rối loạn stress sau sang chấn hay hậu chấn tâm lý có liên quan đến Stress có tên tiếng Anh là Posttraumatic Stress Disorder (PTSD) là một rối loạn tâm lý, tâm thần phát triển sau những tổn thương về mặt tinh thần hoặc một sự kiện chấn thương nào đó (tấn công tình dục, chiến tranh, va chạm giao thông…).
Các triệu chứng của người PTSD có thể bao gồm suy nghĩ, cảm xúc hoặc giấc mơ đáng lo ngại liên quan đến các sự kiện, đau khổ về tinh thần hoặc thể chất đối với các dấu hiệu liên quan đến chấn thương, né tránh các dấu hiệu liên quan đến chấn thương, thay đổi cách suy nghĩ và cảm nhận đồng thời gia tăng phản ứng gây hấn hoặc lo âu.
Những triệu chứng này kéo dài hơn một tháng sau sự kiện. Trẻ nhỏ ít có khả năng thể hiện sự đau khổ, nhưng thay vào đó có thể thể hiện ký ức của chúng thông qua chơi. Một người bị PTSD có nguy cơ tự tử và làm hại bản thân cao hơn các rối loạn khác.
Theo WHO có sáu loại nạn nhân chịu tác động của thảm họa:
Nạn nhân loại I: Người trực tiếp bị nạn
Nạn nhân loại II: Người thân của nạn nhân
Nạn nhân loại III: Người đến cứu hộ, cứu nạn
Nạn nhân loại IV: Các thành viên trong cộng đồng
Nạn nhân loại V: Người bị rối loạn khi nghĩ đến thảm hoạ
Nạn nhân loại VI: Người tình cờ liên quan đến thảm hoạ
Các triệu chứng rối loạn tâm thần liên quan đến chấn thương được ghi nhận vào thời Hy Lạp cổ đại. Trong Chiến tranh Thế Giới thứ I hội chứng này được gọi là Shell Shock (cú sốc do đạn trái phái). Phải đến những năm 1970 thuật ngữ “rối loạn căng thẳng sau chấn thương” mới được sử dụng bởi tác động của chiến tranh Việt Nam lên những cựu binh Mỹ với nhiều dấu hiệu khủng hoảng trầm trọng. 1980 Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ chính thức công nhận hội chứng này và bổ dung vào Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần lần thứ 3 (DSM-III).
Theo nghiên cứu do Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) thực hiện năm 1988 tỷ lệ mắc PTSD trọn đời trên những cựu binh Hoa Kỳ là khoảng 14,7%.
Con số này tăng lên thành 31% trong cuộc khảo sát của tổ chức National Vietnam Veterans Readjustment Study (NVVRS). Một khảo sát khác của Tập san Science của Mỹ vào năm 2006 cho thấy tỷ lệ này có sự giảm xuống rõ rệt từ 31% xuống còn 19%, giảm 12% đối với trọn đời và từ 15% xuống còn 9%, giảm 6% đối với tỷ lệ người mắc bệnh vào thời điểm hiện tại.
- Báo cáo của NVVRS còn cho thấy hàng loạt những vấn đề gặp phải ở cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam:
- 40% cựu binh đã ly hôn ít nhất một lần, 10% ly hôn hai lần hoặc hơn.
- 14% có các vấn đề nghiêm trọng trong hôn nhân và 23% có vấn đề nghiêm trọng với cha mẹ.
- Gần một nửa cựu binh mắc PTSD từng bị bắt giữ hoặc vào tù một lần, 35% hơn 1 lần và 12% có hành vi phạm tội nghiêm trọng.
- 11% cựu binh nghiện hoặc lạm dụng rượu, 39% từng có hành vi này tại một thời điểm nào đó trong đời.
Hiện nay, tỷ lệ người trưởng thành mắc PTSD trên thế giới trong một năm là khoảng từ 0.5-1%. Tỷ lệ này cao hơn tại những khu vực có xung đột vũ trang, và phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới. Tại Hoa Kỳ, khoảng 8% người trưởng thành mắc PTSD trong một năm nhất định của cuộc đời và có ít nhất 9% trong đó phát triển nó tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ.
Tại Việt Nam, sau khi cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc, cùng với những biến động kinh tế, văn hóa, chính trị to lớn khiến cho tỷ lệ người lớn mắc PTSD cao hơn so với mặt bằng chung. Cho tới nay vẫn chưa có một thống kê cụ thể nào về tỷ lệ người mắc PTSD tại Việt Nam tuy nhiên một số khảo sát tại TPHCM cho thấy con số này nằm trong khoảng từ 0.7% trong nhóm người bình thường và 7% trong nhóm nguy cơ cao (tội phạm chính trị, những người theo Việt Nam Cộng Hòa).
Xem thêm >>> Tham Vấn Tâm Lý Trực Tuyến
Biểu hiện triệu chứng của PTSD
Các biểu hiện triệu chứng của PTSD có thể chia làm 3 nhóm cơ bản sau:
Trải nghiệm lại các sự kiện gây sang chấn: Người bệnh có những hồi tưởng khó cưỡng lại được về cách biến cố gây sang chấn, đôi khi sự kiện có cảm giác như đang hiện diện ngay trong thực tại (hay gặp ác mộng khi ngủ). Ở những người nặng, họ thậm chí còn nghe thấy tiếng nói trong đầu, nghe tiếng ai đó gọi tên mình mà không có ai bên cạnh (ảo thính). Nhiều người lại thấy những cái bóng đi qua hay cảm tưởng có ai đó đang nhìn mình, đứng sau lưng mình (ảo thị).
Lẩn tránh các kích thích liên quan đến biến cố sang chấn: Cố gắng không suy nghĩ hay đề cập đến những vấn đề liên quan đến biến cố, tránh xa bất cứ điều gì gợi nhắc lại đến sự kiện sang chấn. Ví dụ một người phụ nữ từng bị cưỡng hiếp vào buổi đêm có thể sẽ từ chối không ra đường khi trời tối kể cả khi thực sự an toàn. Hay như trong một trường hợp cụ thể, một người sống sót sau một cơn sóng thần sẽ không muốn đi ra biển.
Nhạy cảm quá mức: Người mắc PTSD trở nên nhạy cảm hơn với các kích thích, dễ giật mình, khó đi vào giấc ngủ và dễ mất ngủ. Giận dữ với các vấn đề về cảm xúc khác như có cảm giác tuyệt vọng, hay có mặc cảm tội lỗi (thường xuất hiện ở những cựu binh chiến tranh).
Ngoài ra người ta còn nhận thấy nhiều người PTSD có dấu hiệu lạm dụng chất như nghiện rượu, sử dụng ma túy để trốn tránh đau buồn. Họ cũng thường có các vấn đề về thể chất như đau đầu, đau bụng, nhức mỏi cơ, chóng mặt và đau ngực…nhưng lại không có nguyên nhân thực thể khi được thăm khám.
Các triệu chứng của PTSD thường bắt đầu trong vòng 3 tháng đầu sau khi xảy ra chấn thương, nhưng có thể không bắt đầu cho đến nhiều năm sau đó. Trong trường hợp điển hình, cá nhân mắc PTSD liên tục tránh những suy nghĩ và cảm xúc liên quan đến chấn thương và thảo luận về sự kiện chấn thương, thậm chí có thể bị mất trí nhớ về sự kiện này.
Tuy nhiên, sự kiện này thường được sống lại trong các cá nhân thông qua các hồi ức xâm nhập, tái phát, các giai đoạn phân ly của việc làm giảm chấn thương (hồi tưởng) và ác mộng.
Mặc dù chúng thường không có các triệu chứng rõ ràng, tuy nhiên chúng phải tồn tại ở mức độ đủ để có thể gây ra rối loạn chức năng trong cuộc sống hoặc mức độ đau khổ lâm sàng trong hơn 1 tháng sau khi chấn thương được phân loại là PTSD. Trường hợp những rối loạn chức năng hay đau khổ này diễn ra ít hơn 1 tháng thì được gọi là rối loạn căng thẳng cấp tính.
Các triệu chứng PTSD trên người bệnh thường không cố định mà có thể thay đổi theo thời gian. 30% trong đó có khả năng hồi phục hoàn toàn, 40% vẫn còn những triệu chứng ở mức độ nhẹ và 20% ở mức độ trung bình, đáng tiếc vẫn có 10% bệnh nhân không có cải thiện thậm chí xấu đi. Về lứa tuổi, người trung niên có khả năng hồi phục cao hơn so với người già và tầng lớp thanh thiếu niên.
Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây ra PTSD
Mặt khác, bạn cũng có thể mắc bệnh nếu có các yếu tố sau:
- Có những đặc điểm di truyền về sức khỏe tâm thần như tăng nguy cơ lo âu và trầm cảm;
- Trải qua những chấn thương tâm lý nghiêm trọng từ thời thơ ấu;
- Tính khí;
- Cách não kiểm soát các tín hiệu và hormone trong cơ thể khi phản ứng với căng thẳng.
Hầu hết những người trải qua một sự kiện chấn thương thường không phát triển PTSD. Những người trải qua chấn thương như hãm hiếp, bị lạm dụng trẻ em có khả năng mắc PTSD cao hơn so với những người trải qua chấn thương không tấn công như thiên tai, tai nạn.
Khoảng 50% người mắc PTSD đã từng bị hãm hiếp. Trẻ em có ít khả năng mắc PTSD hơn sau khi bị chấn thương, đặc biệt là trẻ em dưới 10 tuổi. Những chẩn đoán này dựa trên sự hiện diện của các triệu chứng cụ thể sau một sự kiện chấn thương.
Các trường hợp có nguy cơ cao mắc PTSD:
Tấn công, khủng bố: Như các nạn nhân sống sót sau sự kiện 11 tháng 9 ở Mỹ, vụ khủng bố nhà hát Dubrovka Moskva ở Nga.
Tội ác chiến tranh hay ký ức về chiến tranh, chém giết: Có ít nhất 25% người từng tham gia chiến tranh phát triển PTSD. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó thường bị trì hoãn đến sau khi cuộc chiến kết thúc hoặc trong một khoảng thời gian dài sau đó thông qua những ảo giác hay hồi tưởng của người bệnh. Không chỉ những người lính, 4 – 86% người tị nạn cũng phát triển PTSD do việc tiếp xúc với chiến tranh mang lại.
Nạn nhân sống sót sau tội ác chiến tranh như diệt chủng người Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ 2, Sự kiện Thiên An Môn… Không chỉ với nạn nhân, người gây ra tội ác cũng mắc PTSD. Các ký ức về chiến tranh, chém giết, sợ hãi cũng gây ra chấn thương tâm lý, như ước lượng có đến gần 13% những quân nhân Mỹ đã chiến đấu tại Iraq và chừng 6% tại Afghanistan có thể đã bị hội chứng này.
Tai nạn nghiêm trọng: Tai nạn giao thông cũng là một trong những chấn thương gây ra hội chứng PTSD cao ở cả người lớn (22%) và trẻ em (20%). Ví dụ: Sập cầu Cần Thơ, Đắm đò trên sông Gianh năm 2009.
Thảm họa thiên nhiên: Sóng thần ở châu Á năm 2004, Động đất Tứ Xuyên năm 2008, Động đất và sóng thần Tōhoku 2011.
Bạo hành tình dục: Những người PTSD do tấn công tình dục hoặc hiếp dâm có các triệu chứng liên quan đến trải nghiệm lại cuộc tấn công, né tránh những điều liên quan đến cuộc tấn công, tê lieettj và tăng sự lo lắng và phản ứng giật mình. Trường hợp, người bị hãm hiếp hoặc tấn công tình dục trong thời gian dài hoặc bị giam giữ có các biểu hiện PTSD kéo dài hơn. Khả năng triệu chứng nghiêm trọng kéo dài cũng cao hơn nếu những người xung quanh bỏ qua hoặc không biết gì về sự kiện chấn thương mà người bệnh gặp phải trước đó.
Bạo hành gia đình: Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, bạo lực gia đình là một trong những yếu tố nguy cơ làm gia tăng và phát triển PTSD ở các cá nhân. Có mối liên hệ chặt chẽ giữa sự phát triển của PTSD ở những bà mẹ từng trải qua bạo lực gia đình trong thai kỳ.
Theo Bessel van der Kolk những sang chấn tâm lý nghiêm trọng nhất là khi có sự phá vỡ mối quan hệ thân thiết, gây mất lòng tin nặng nề, như những trường hợp loạn luân, chứng kiến cái chết thảm khốc của người mà mình thương yêu; hoặc khi có sự phá vỡ sự toàn vẹn của bản ngã như trong trường hợp nạn nhân bị hiếp dâm, tra khảo.
Người ta nhận thấy sự tác động khác nhau của sự kiện gây sang chấn đến những người khác nhau, với người này thì để lại hậu quả nghiêm trọng người khác thì không. Trong cùng một biến cố thì người trực tiếp là nạn nhân có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người chỉ gián tiếp liên quan, chẳng hạn như chỉ nhìn thấy sự kiện.
Theo nghiên cứu của Đại học Johns Hopkins của Mỹ thì những người sống sót sau cơn động đất bị mất mát nhiều nhất về vật chất và tài chính, ít học và một mình trải qua thảm họa có nguy cơ bị rối loạn stress sau sang chấn cao hơn.
Cụ thể người bị tổn thất nhiều nhất có các triệu chứng của PTSD cao gấp 4 lần. Ngoài ra cũng phải kể đến yếu tố tâm lý riêng của từng người, những người có khả năng chịu đựng stress tốt hơn thì ít nguy cơ hơn, tuy nhiên tất cả mọi người đều có mức độ chịu đựng nhất định, hiếm có người nào sống sót trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã mà lại không bị tổn thương về tâm lý.
Việc mất người thân, việc làm, ly hôn… tuy rằng thường chỉ dẫn đến rối loạn stress cấp tính (tức là những biểu hiện lo âu quá độ chỉ diễn ra một thời gian ngắn sau sự kiện đau buồn) nhưng cũng có trường hợp kéo dài và dẫn đến PTSD nên cũng phải lưu ý.
Những người được coi là có nguy cơ bao gồm các nhân viên quân sự chiến đấu, nạn nhân của thảm họa thiên nhiên, những người sống sót trong trại tập trung và nạn nhân của tội phạm bạo lực. Những người làm việc trong các ngành nghề khiến họ phải chịu bạo lực (như binh lính) hoặc thảm họa (như nhân viên dịch vụ khẩn cấp) cũng có nguy cơ.
Các ngành nghề khác có nguy cơ cao hơn bao gồm sĩ quan cảnh sát, lính cứu hỏa, nhân viên cứu thương, chuyên gia chăm sóc sức khỏe, lái tàu, thợ lặn, nhà báo và thủy thủ, ngoài những người làm việc tại ngân hàng, bưu điện hoặc trong các cửa hàng. Kích thước của đồi hải mã có liên quan nghịch với rối loạn căng thẳng sau chấn thương và điều trị thành công; hải mã càng nhỏ thì nguy cơ mắc PTSD càng cao.
PTSD do chấn thương
Chấn thương là một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến PTSD. Các sự kiện, mức độ chấn thương có liên quan mật thiết đến mức độ rối loạn căng thẳng sau chấn thương của một người. Theo đó, PTSD phát triển cao nhất ở những người bị bạo lực tình dục (12%), đặc biệt là hiếp dâm (gần 20%). Do đặc điểm tâm sinh lý (nhạy cảm, yếu đuối, dễ tổn thương..) cùng tỷ lên bị lạm dụng tình dục và hiếp dâm thường phổ biến hơn ở phụ nữ vì vậy không có gì lạ khi PTSD phát triển ở nữ cao hơn so với đàn ông.
Ở trẻ em những chấn thương tâm lý liên quan đến nghịch cảnh kinh niên, trải nghiệm bị bắt nạt, các rối loạn gắn bó và lạm dụng làm gia tăng nguy cơ của PTSD khi họ trưởng thành.
Chấn thương do mất mát
Sự ra đi của một người quan trọng hay cái chết bất ngờ của người thân yêu là loại sự kiện chấn thương phổ biến nhất được báo cáo trong các nghiên cứu xuyên quốc gia khoảng 20%.
Tuy nhiên, phần lớn những người trải nghiệm loại sự kiện này sẽ không tiếp tục phát triển PTSD. Một phân tích từ các khảo sát về sức khỏe tâm thần thế giới của WHO cho thấy 5,2% những người biết về cái chết bất ngờ của người thân có nguy cơ phát triển thành PTSD.
Mắc bệnh hiểm nghèo
Các điều kiện y tế liên quan đến việc gia tăng nguy cơ mắc PTSD bao gồm ung thư, đau tim và đột quỵ, trong đó, 22% những người sống sót sau ung thư có triệu chứng PTSD suốt đời.
Thai kỳ
Phụ nữ bị sẩy thai có nguy cơ mắc PTSD. Những người trải qua lần sẩy thai tiếp theo có nguy cơ mắc PTSD cao hơn so với những người chỉ trải qua một lần. PTSD cũng có thể xảy ra sau khi sinh con và có nguy cơ cao hơn ở những người phụ nữ bị chấn thương trước khi mang thai.
Tỷ lệ mắc PTSD sau khi sinh con bình thường là khoảng 2.8 – 5.6% sau 6 tuần sau sinh và giảm xuống còn 1.5% sau 6 tháng sau sinh. Tỷ lệ mắc PTSD nếu sinh con không thành (thai chết lưu hoặc biến chứng) là khoảng 24-30% sau 6 tuần và giảm xuống còn 13.6% sau 6 tháng. Sinh con khẩn cấp (sinh non) cũng làm gia tăng nguy cơ PTSD.
Các yếu tố di truyền
Có bằng chứng cho thấy sư nhạy cảm của PTSD với yếu tố di truyền. Khoảng 30% phương sai trong PTSD là do di truyền đơn thuần. Những cặp sinh đôi cùng trứng có nguy cơ mắc PTSD cao hơn sinh đôi khác trứng.
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những người có đồi hải mã nhỏ hơn về mặt di truyền có khả năng phát triển PTSD cao hơn so với những người khác sau cùng một sự hiện chấn thương. Một số chỉ số sinh học khác ngoài thể tích hồi hải mã nhỏ như phản ứng giật mình tăng cao, bạch cầu có lượng thụ thể Glucocorticoid cao được xác định là có liên quan đến phát triển PTSD sau này khi gặp các chấn thương.
Yếu tố di truyền học không chỉ ảnh hưởng đến PTSD mà còn phổ biến với nhiều rối loạn tâm thần khác. 60% người mắc PTSD do di truyền có bố mẹ hoặc người thân gặp các rối loạn lo âu tổng quát hoặc hoảng loạn. 40% còn lại có liên quan đến lạm dụng chất hoặc phụ thuộc thuốc.
Phản ứng sinh lý
Bên cạnh chấn thương, di truyền thì các triệu chứng PTSD có thể xảy ra khi một sự kiện chấn thương gây ra phản ứng Adrenaline quá mức, tạo ra các mô hình thần kinh sâu trong não.
Những mô hình này có thể tồn tại lâu sau sự kiện gây ra nỗi sợ hãi, khiến một cá nhân phản ứng mạnh với các tình huống sợ hãi trong tương lai. Trong quá trình trải nghiệm chấn thương, nồng độ hormone căng thẳng cao tiết ra làm ức chế hoạt động vùng dưới đồi có thể là một yeeys tố chính đối với sự phát triển của PTSD.
PTSD gây ra những thay đổi sinh hóa trong não và vùng cơ thể, khác với các rối loạn tâm thần khác như trầm cảm lớn. Các cá nhân được chẩn đoán mắc PTSD phản ứng mạnh hơn với các xét nghiệm ức chế Dexamethasone so với các cá nhân được chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm lâm sàng. Hầu hết những người bị PTSD cho thấy sự bài tiết thấp Cortisol và bài tiết cao Catecholamine trong nước tiểu, với tỷ lệ Norepinephrine/Cortisol do đó cao hơn so với những người không được chẩn đoán so sánh.
Vì cortisol thường rất quan trọng trong việc khôi phục cân bằng nội môi sau phản ứng căng thẳng, người ta cho rằng những người sống sót sau chấn thương với cortisol thấp trải qua một phản ứng kém, đó là phản ứng lâu dài và đau khổ hơn, tạo tiền đề cho PTSD.
Nồng độ Catecholamine trong não cao và nồng độ yếu tố giải phóng Corticontropin cao khiến cho trục hạ đồi, tuyến yên và tuyến thượng thận (HPA) bất thường làm gia tăng PTSD.
Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng những người bị PTSD có nồng độ Serotonin thấp thường có các triệu chứng hành vi như lo lắng, khó chịu, hung hăng, bốc đồng thậm chí là tự tử. Serotonin cũng góp phần giúp ổn định sản xuất Glucocorticoid.
Nồng độ Dopamine ở người bị PTSD có thể góp phần gây ra các triệu chứng, mức độ thấp nhất có thể góp phần gây ra Anhedonia, thờ ơ, suy giảm chú ý và thiếu hụt vận động, mức độ cao có thể góp phần vào rối loạn tâm thần, kích động và bồn chồn.
Tăng phản ứng trong hệ thống norepinephrine cũng có thể được gây ra do tiếp tục tiếp xúc với căng thẳng cao. Sự hoạt động quá mức của các thụ thể norepinephrine ở vỏ não trước trán có thể được kết nối với hồi tưởng và những cơn ác mộng thường gặp ở những người mắc PTSD. Việc giảm các chức năng norepinephrine khác (nhận thức về môi trường hiện tại) ngăn các cơ chế bộ nhớ trong não xử lý trải nghiệm đó và cảm xúc mà con người đang trải qua trong hồi tưởng không liên quan đến môi trường hiện tại.
Có nhiều tranh cãi trong cộng đồng y tế liên quan đến sinh học thần kinh của PTSD. Một đánh giá năm 2012 cho thấy không có mối quan hệ rõ ràng giữa mức độ cortisol và PTSD. Phần lớn các báo cáo cho thấy những người bị PTSD có nồng độ hormone giải phóng corticotropin tăng cao, nồng độ cortisol cơ bản thấp hơn và tăng cường ức chế phản hồi tiêu cực của trục HPA bởi dexamethasone.
Giải phẫu thần kinh
Một phân tích tổng hợp các nghiên cứu MRI cấu trúc đã tìm thấy mối liên hệ giữa giảm tổng thể tích não , thể thích nội sọ và thể tích của đồi hải mã, vỏ não và vỏ não trước có liên quan đến PTSD đặc biệt là những người có tiếp xúc với chiến tranh Việt Nam.
Những người bị PTSD đều có biểu hiện giảm hoạt động của vỏ não trước, vỏ não sau, trước trán và các khu vực liên quan đến trải nghiệm và điều tiết cảm xúc. Amygdala tham gia mạnh mẽ vào việc hình thành những ký ức cảm xúc, đặc biệt là những ký ức liên quan đến sợ hãi.
Khi căng thẳng cao độ, hải mã, liên quan đến việc đặt ký ức trong bối cảnh chính xác của không gian và thời gian cũng như những hồi tưởng ký ức bị triệt tiêu. Theo một số lý thuyết sự ức chế này có thể là nguyên nhân của những hồi tưởng có thể ảnh hưởng đến những người bị PTSD.
Mô hình Amygdalrialric của PTSD đề xuất rằng amygdala bị kích thích rất nhiều và không đủ kiểm soát bởi vỏ não trước trán trung gian và đồi hải mã, đặc biệt là trong thời kỳ tuyệt chủng. Điều này phù hợp với cách giải thích PTSD là một hội chứng của khả năng tuyệt chủng thiếu hụt.
Hạt nhân cơ bản (BLA) của Amygdala chịu trách nhiệm so sánh và phát triển mối liên hệ giữa các phản ứng không điều kiện và có điều kiện với các kích thích, dẫn đến tình trạng sợ hãi hiện diện trong PTSD. BLA kích hoạt hạt nhân trung tâm (CeA) của Amygdala, xây dựng phản ứng sợ hãi (bao gồm phản ứng hành vi đối với mối đe dọa và phản ứng giật mình tăng cao).
So sánh các cụm lưng (gần như CeA) và cụm bụng (gần như BLA) sự hiếu động mạnh mẽ hơn ở cụm bụng, trong khi sự giảm âm rõ rệt ở cụm lưng. Sự khác biệt có thể giải thích những cảm xúc bị cùn trong PTSD (thông qua giải mẫn cảm trong CeA) cũng như thành phần liên quan đến nỗi sợ hãi.
Tái diễn lại sang chấn
Người bệnh thông thường muốn lẩn tránh các kích thích liên quan đến biến cố sang chấn tuy nhiên khi sự việc này thất bại họ lại có xu hướng ngược lại, tức là tìm đến những hoàn cảnh tương tự sang chấn.
Ví dụ nạn nhân của loạn luân trở thành gái mại dâm, trẻ bị bạo hành về thể xác thực hiện hành vi tự gây thương tích như dùng dao tự cắt vào da thịt của mình, binh lính đã giải ngũ quay trở lại làm lính đánh thuê… Sigmund Freud xem biểu hiện này là có mục đích của người bệnh nhằm cố gắng lấy lại quyền làm chủ bản thân. Ở thời điểm hiện tại có nghiên cứu cho rằng nguyên nhân của vấn đề này là họ nghiện một số chất tiết ra trong quá trình sang chấn và bây giờ muốn tiếp xúc trở lại.
Xem thêm >>> Tham Vấn Tâm Lý Tận Nhà
Chẩn đoán PTSD
Rối loạn căng thẳng sau chấn thương theo DSM-IV
PTSD được phân loại là một rối loạn lo âu trong DSM-IV, nhưng sau đó đã được phân loại lại thành một “rối loạn liên quan đến chấn thương và căng thẳng” trong DSM-V. Tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-5 cho PTSD bao gồm bốn cụm triệu chứng: trải nghiệm lại, tránh, thay đổi tiêu cực trong nhận thức / tâm trạng và thay đổi kích thích và phản ứng.
Theo DSM-IV tiêu chuẩn chẩn đoán PTSD cụ thể như sau:
A. Từng bị ảnh hưởng bởi một sự kiện sang chấn (có thể trực tiếp là nạn nhân hoặc chỉ chứng kiến
B. Sự kiện gây sang chấn tái diễn dai dẳng theo một hay nhiều cách (ví dụ như ác mộng, hồi tưởng)
C. Né tránh trước các kích thích gợi lại sang chấn và sự tê liệt đáp ứng
D. Các triệu chứng dai dẳng có tính chất bi kịch (không xảy ra trước sang chấn) như khó đi vào giấc ngủ, dễ giận dữ
E. Thời gian kéo dài của rối loạn này (các triệu chứng ở tiêu chuẩn B, C và D) trên 1 tháng
F. Làm suy yếu chức năng xã hội, ảnh hưởng xấu đến công việc và các mối quan hệ khác
Chẩn đoán PTSD theo ICD -10
Phân loại quốc tế về bệnh và các vấn đề sức khỏe liên quan 10 (ICD-10) phân loại PTSD theo “Phản ứng với căng thẳng nghiêm trọng và rối loạn điều chỉnh”. Tiêu chí ICD -10 cho PTSD bao gồm trải nghiệm lại, tránh và tăng khả năng phản ứng hoặc không có khả năng nhớ lại một số chi tiết nhất định liên quan đến sự kiện.
Mô tả chẩn đoán ICD-11 cho PTSD chứa ba thành phần hoặc nhóm triệu chứng (1) gặp lại, (2) tránh và (3) ý thức về mối đe dọa tăng cao. Một sự khác biệt khác giữa các công thức chẩn đoán PTSD của ICD-10 và ICD-11, ICD-11 không còn bao gồm những suy nghĩ bằng lời nói về sự kiện chấn thương như là một triệu chứng.
Có tỷ lệ PTSD được chẩn đoán thấp hơn dự đoán sử dụng ICD-11 so với ICD10 hoặc DSM-5. ICD-11 cũng đề xuất xác định một nhóm khác biệt với rối loạn căng thẳng sau chấn thương phức tạp (CPTSD), người thường xuyên trải qua nhiều chấn thương kéo dài và kéo dài và suy giảm chức năng nhiều hơn so với những người mắc PTSD.
Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán PTSD yêu cầu người đó phải tiếp xúc với một tác nhân gây căng thẳng cực kỳ nguy hiểm đến tính mạng. Bất kỳ yếu tố gây căng thẳng nào cũng có thể dẫn đến chẩn đoán rối loạn điều chỉnh và đó là chẩn đoán thích hợp cho yếu tố gây căng thẳng và mô hình triệu chứng không đáp ứng các tiêu chí cho PTSD.
Mô hình triệu chứng cho rối loạn căng thẳng cấp tính phải xảy ra và được giải quyết trong vòng bốn tuần sau chấn thương. Nếu nó kéo dài lâu hơn và mô hình triệu chứng phù hợp với đặc điểm đó của PTSD, chẩn đoán có thể được thay đổi.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể được chẩn đoán cho những suy nghĩ xâm nhập đang tái phát nhưng không liên quan đến một sự kiện chấn thương cụ thể.
Trong những trường hợp cực đoan của chấn thương kéo dài, lặp đi lặp lại trong trường hợp không có cơ hội trốn thoát khả thi, những người sống sót có thể bị rối loạn căng thẳng sau chấn thương phức tạp. Điều này xảy ra là kết quả của các lớp chấn thương chứ không phải là một sự kiện chấn thương đơn lẻ, và bao gồm cả triệu chứng bổ sung, chẳng hạn như mất cảm giác mạch lạc của bản thân.
Một số yếu tố cản trở chẩn đoán PTSD
- Bản chất chủ quan của hầu hết các tiêu chuẩn chẩn đoán (mặc dù điều này đúng với nhiều rối loạn tâm thần).
- Khả năng báo cáo quá mức, ví dụ, trong khi tìm kiếm lợi ích khuyết tật, hoặc khi PTSD có thể là một yếu tố giảm nhẹ khi kết án hình sự.
- Khả năng báo cáo dưới mức, ví dụ, sự kỳ thị, niềm tự hào, sợ rằng chẩn đoán PTSD có thể ngăn cản một số cơ hội việc làm nhất định;
- Triệu chứng chồng chéo với các rối loạn tâm thần khác như rối loạn ám ảnh cưỡng chế và rối loạn lo âu tổng quát.
- Liên quan đến các rối loạn tâm thần khác như rối loạn trầm cảm lớn và rối loạn lo âu tổng quát.
- Rối loạn sử dụng chất, thường tạo ra một số dấu hiệu và triệu chứng giống như PTSD.
- Rối loạn sử dụng chất có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương với PTSD hoặc làm trầm trọng thêm các triệu chứng PTSD hoặc cả hai; và
- PTSD làm tăng nguy cơ phát triển rối loạn lạm dụng chất.
- Sự biểu hiện khác biệt của các triệu chứng một cách văn hóa (đặc biệt liên quan đến các triệu chứng tránh và gây tê, giấc mơ đau khổ và các triệu chứng soma
Điều trị PTSD
Sử dụng thuốc và can thiệp tâm lý được cho là 2 phương pháp điều trị PTSD hàng đầu hiện nay.
Sử dụng thuốc
Tổ chức Y tế thế giới WHO khuyến cáo không nên sử dụng thuốc chống trầm cảm hay Benzodiazepin cho người bị căng thẳng cấp tính (các triệu chứng kéo dài dưới 1 tháng). Một số bằng chứng ủng hộ việc sử dụng hydrocortison để phòng ngừa ở người lớn, mặc dù có giới hạn hoặc không có bằng chứng hỗ trợ propranolol, escitalopram, temazepam hoặc gabapentin .
Các thuốc giảm đau không được khuyến cáo trong điều trị PTSD do thiếu bằng chứng về lợi ích và nguy cơ làm nặng thêm các triệu chứng PTSD. Một số tác giả tin rằng việc sử dụng các thuốc benzodiazepin chống chỉ định cho căng thẳng cấp tính, vì nhóm thuốc này có thể gây ra sự phân ly.
Ngoài ra, các thuốc benzodiazepin có thể làm giảm hiệu quả của các biện pháp can thiệp trị liệu tâm lý, và có một số bằng chứng cho thấy các thuốc benzodiazepin thực sự có thể đóng góp vào sự phát triển và niên đại hóa PTSD. Đối với những người đã bị PTSD, các thuốc benzodiazepin có thể làm xấu đi và kéo dài quá trình bệnh, bằng cách làm xấu đi kết quả tâm lý trị liệu, và gây ra hoặc làm trầm trọng thêm sự gây hấn, trầm cảm (bao gồm tự tử) và sử dụng chất gây nghiện.
Can thiệp tâm lý
Các phương pháp can thiệp tâm lý được các nhà tâm lý tin tưởng trong can thieepjPTSD bao gồm: các liệu pháp hành vi và nhận thức hành vi như liệu pháp tiếp xúc kéo dài , liệu pháp xử lý nhận thức và giải mẫn cảm và tái xử lý chuyển động mắt (EMDR). Ngoài ra, liệu pháp tâm lý chiết trung ngắn (BEP), liệu pháp tiếp xúc trần thuật (NET) và các liệu pháp tiếp xúc bằng văn bản cũng có bằng chứng.
Một so sánh phân tích tổng hợp về EMDR và liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) cho thấy cả hai giao thức không thể phân biệt về hiệu quả trong điều trị PTSD; tuy nhiên, “sự đóng góp của thành phần chuyển động mắt trong EMDR cho kết quả điều trị” là không rõ ràng. Một phân tích tổng hợp ở trẻ em và thanh thiếu niên cũng cho thấy EMDR có hiệu quả tương đương với liệu pháp hành vi nhận thức .
Hơn nữa, sự sẵn có của trị liệu tại trường đặc biệt quan trọng đối với trẻ em bị PTSD. Trẻ em bị PTSD có nhiều khả năng theo đuổi điều trị tại trường (vì sự gần gũi và dễ dàng) hơn là tại một phòng khám miễn phí.
Vậy là ThanhBinhPsy vừa giới thiệu đến bạn đọc PTSD là gì? cũng như nguyên nhân, triệu chứng và cách chữa trị của rối loạn tâm thần nghiêm trọng này. Việc hiểu biết về PTSD vừa là cách để bạn bảo vệ bản thân cũng như những người thân và cộng đồng. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi.